40 câu hỏi
Một trong các loại mẫu thường được sử dụng trong DTH là:
Mẫu ngẫu nhiên đơn
Mẫu ngẫu nhiên
Mẫu cố định
Mẫu thích hợp
Khung mẫu cần thiết của mẫu ngẫu nhiên đơn là:
Danh sách toàn bộ các cá thể của quần thể đích
Danh sách các đối tượng nghiên cứu
Danh sách toàn bộ các cụm của quần thể đích
Tổng số các cụm của quần thể đích
Khung mẫu cần thiết của mẫu hệ thống là:
Danh sách các đối tượng nghiên cứu
Danh sách toàn bộ các cá thể của quần thể đích
Tổng số các cụm của quần thể đích
Danh sách toàn bộ các cụm của quần thể đích
Khung mẫu cần thiết của mẫu chùm là:
Danh sách toàn bộ các cá thể của quần thể đích
Danh sách các đối tượng nghiên cứu
Danh sách toàn bộ các cụm của quần thể đích
Tổng số các cụm của quần thể đích
Khung mẫu cần thiết của mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước là:
Danh sách toàn bộ các cụm của quần thể đích
Tổng số các cụm của quần thể đích
Tổng số các đối tượng nghiên cứu
Danh sách toàn bộ các cá thể của quần thể đích
Một trong những công cụ cần thiết để thiết kế mẫu ngẫu nhiên đơn là:
Danh sách các đối tượng nghiên cứu
Danh sách toàn bộ các cá thể của quần thể đích
Danh sách toàn bộ các cụm của quần thể đích
Tổng số các đối tượng nghiên cứu
Một trong những công cụ cần thiết để thiết kế mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước là:
Danh sách toàn bộ các cá thể của quần thể đích
Tổng số các cụm của quần thể đích
Tổng số các đối tượng nghiên cứu
Danh sách toàn bộ các cụm của quần thể đích
Quần thể đích là toàn dân tỉnh A phân bố trên ba vùng không đều nhau: Đồng bằng, Trung du, Miền núi. Cần chọn một mẫu n = 200 cá thể để nghiên cứu một vấn đề sức khỏe có liên quan tới môi trường. Mẫu đại diện tốt nhất cho quần thể sẽ là:
Mẫu chùm (một giai đoạn)
Mẫu nhiều giai đoạn
Mẫu tầng tỷ lệ
Mẫu tầng không tỷ lệ
OMS đã sử dụng mẫu PPS để đánh giá tỷ lệ tiêm chủng trong chương trình tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam vì:
Loại mẫu này tốn ít thời gian nhất
Loại mẫu này là đại diện tốt nhất cho quần thể
Loại mẫu này dễ áp dụng nhất
Loại mẫu này là hiệu quả nhất, khi xét về độ chính xác / giá thành.
Một trong các phương tiện dùng để chọn ngẫu nhiên là:
Bảng số ngẫu nhiên
Bảng chữ cái ABC...
Bảng các giá trị (2)
Bảng các giá trị t
Để tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên, thường phải dùng tới bảng số ngẫu nhiên vì:
Rẻ tiền
Dễ thực hiện
Giảm được sai số mẫu
Giảm được sai số đo lường
Một quần thể có kích thước N = 6, mẫu chọn ra có kích thước n = 2. Tổng số T các mẫu có kích thước n = 2 là:
T=20
T=15
T=10
T=6
Để có được ước đoán chính xác nhất về tỷ lệ (trường hợp nhị thức) cần điều tra trong quần thể thì phải dựa vào:
Tỷ lệ mắc bệnh ở địa phương
Một nghiên cứu tương tự
Số liệu thường qui
Một nghiên cứu ngang
Để có được ước đoán chính xác nhất về tỷ lệ (trường hợp siêu bội) cần điều tra trong quần thể thì phải dựa vào:
Một nghiên cứu thăm dò
Tỷ lệ mắc bệnh ở địa phương
Số liệu thường qui
Một nghiên cứu tương quan
Mẫu số trong các công thức tính cỡ mẫu luôn là:
Mức chính xác mong muốn
Một giá trị được tra trong các bảng tính sẵn
Độ lệch chuẩn
Khoảng tin cậy
Một trong các giai đoại cần thiết của qui trình thiết kế mẫu là:
Xác định rõ các biến số cần điều tra
Sử dụng bảng số ngẫu nhiên
Xây dựng khung mẫu
Lập bảng tần số dồn
Để tính được cỡ mẫu/ ước lượng một số trung bình phải dựa vào:
Độ lệch chuẩn của ước lượng định trước
Bảng số ngẫu nhiên
Khung mẫu
Máy tính
Nghiên cứu ngang đồng nghĩa với nghiên cứu:
Nghiên cứu tương quan
Nghiên cứu tỷ lệ hiện mắc
Nghiên cứu hồi cứu
Nghiên cứu theo dõi
Nghiên cứu tỷ lệ hiện mắc đồng nghĩa với:
Nghiên cứu sinh thái
Nghiên cứu ngang
Nghiên cứu bệnh chứng
Nghiên cứu thuần tập
Đối tượng trong nghiên cứu tỷ lệ hiện mắc là:
Quần thể
Cá thể
Bệnh nhân
Người khỏe
Số cohorte ban đầu của nghiên cứu ngang là:
Nhiều hoặc một
Một
Hai
Nhiều
Số lần khảo sát trên mỗi cohorte trong quá trình nghiên cứu của nghiên cứu ngang là:
Một lần
Nhiều lần
Hai lần
Một lần hoặc nhiều lần
So với các nghiên cứu quan sát khác thì Sai số chọn trong nghiên cứu ngang là:
Không có
Thấp
Trung bình
Cao
So với các nghiên cứu quan sát khác thì Sai số nhớ lại trong nghiên cứu ngang là:
Không có
Thấp
Trung bình
Cao
So với các nghiên cứu quan sát khác thì Yếu tố nhiễu trong nghiên cứu ngang là:
Không có
Trung bình
Cao
Không xác định.
So với các nghiên cứu quan sát khác thì Thời gian cần thiết trong nghiên cứu ngang là:
Thấp
Trung bình
Cao
Không có
So với các nghiên cứu quan sát khác thì Giá thành trong nghiên cứu ngang là:
Không có
Trung bình
Thấp
Không xác định.
Xuất phát điểm của nghiên cứu thuần tập là:
Bệnh nghiên cứu
Yếu tố nghiên cứu
Yếu tố nguy cơ
Nhóm phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ
Nhóm chứng trong nghiên cứu thuần tập là:
Nhóm không phơi nhiễm với yếu tố nghiên cứu.
Nhóm phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ
Nhóm không bị bệnh nghiên cứu
Nhóm phơi nhiễm với yếu tố nghiên cứu
Một trong những ưu điểm của phương pháp nghiên cứu thuần tập là:
Nếu yếu tố nghiên cứu thực sự là yếu tố nguy cơ thì các trường hợp bị bệnh sẽ xuất hiện, người nghiên cứu sẽ chờ được họ
Rẻ tiền
Dễ thực hiện
Tốn ít thời gian
Một trong những nhược điểm của phương pháp nghiên cứu thuần tập là:
Khó đo lường hết sai số
Tài liệu, hồ sơ cần thiết không hòan chỉnh
Đối tượng bị quên (phơi nhiễm với các yếu tố khác...)
Dễ có sự biến động trong các đối tượng nghiên cứu: bỏ, từ chối, thêm vào
Nghiên cứu theo dõi đồng nghĩa với nghiên cứu:
Ngang
Nghiên cứu dọc
Nửa dọc
Tương quan
Đối tượng trong nghiên cứu thuần tập là:
Quần thể
Cá thể
Bệnh nhân
Người khỏe
Số cohorte ban đầu của nghiên cứu nửa dọc là:
Nhiều hoặc một
Một
Hai
Nhiều
Số lần khảo sát trên mỗi cohorte trong quá trình nghiên cứu của nghiên cứu dọc là:
Nhiều lần
Hai lần
Một lần hoặc nhiều lần
Nhiều lần hoặc hai lần
Khi nghiên cứu một nguyên nhân hiếm thì nên sử dụng thiết kế nghiên cứu:
Tương quan
Ngang
Bệnh chứng
Thuần tập
Khi nghiên cứu nhiều hậu quả của cùng một nguyên nhân thì nên sử dụng thiết kế nghiên cứu:
Tương quan
Ngang
Bệnh chứng
Thuần tập
Khi nghiên cứu nhằm xác lập mối liên quan về thời gian thì nên sử dụng thiết kế nghiên cứu:
Tương quan
Ngang
Bệnh chứng
Thuần tập
Khi nghiên cứu nhằm đo trực tiếp số mới mắc thì nên sử dụng thiết kế nghiên cứu:
Tương quan
Ngang
Bệnh chứng
Thuần tập
Người ta nhận thấy có bệnh đường hô hấp ở thành phố có không khí bị ô nhiễm, và không có bệnh đường hô hấp ở thành phố có không khí không bị ô nhiễm và đã hình thành nên giả thuyết là: Rất có thể không khí bị ô nhiễm là nguyên nhân gây nên bệnh đường hô hấp. Việc hình thành giả thuyết như vậy là đã:
Xét trên sự khác biệt
Xét trên sự cùng tồn tại của bệnh và yếu tố
Xét trên sự cùng tồn tại của hai bệnh
Xét trên sự cùng diễn biến
