(2023) Đề thi thử Ngữ văn THPT soạn theo ma trận đề minh họa BGD (Đề 3) có đáp án
6 câu hỏi
Đọc văn bản:
Phủ Lý tháng hai
Thị xã dựng những khung nhà mới
Trên dãy tường đổ nát mùa đông
A B C tiếng trẻ học vỡ lòng
Cỏ trên những nấm mồ xanh nõn
Lá ướt cây bàng lao xao chim hót
Những mảnh bom của hai cuộc chiến tranh
Han gỉ trong bùn
Nhà xây chưa xong vôi vữa ngổn ngang
Mẹ đã ngồi nhóm lửa
Mấy năm rồi anh không về thị xã
Chẳng còn đi trên dãy phố quen
Dải đồi xa anh nằm lại một mình
Chắc cỏ mọc như nơi này xanh nõn
Tháng hai mưa có nở nhiều hoa tím
Mảnh bom thù trong ngực buốt không anh?
Phủ Lý chiều nay thoáng mưa xuân
Bè bạn gặp nhau nhớ anh biết mấy
Thuyền chở đá ngược dòng sông Đáy
Nắng tắt dần trên những vạt buồm căng
Như câu thơ anh viết nửa chừng
Mai bưởi chín anh không về hái nữa
Năm lửa cháy các anh đi dập lửa
Tin tương lai như chùm quả ngọt ngào
Dẫu không về chẳng khuất xa đâu
Nấm mộ xuân sang phập phồng cỏ mát
Trái tim anh vẫn đập dồn dưới đất
Gửi lại mến thương hy vọng chờ mong
Chúng tôi nào có thể sống dửng dưng
Gió mạnh thổi ngoài ga giục giã
Ánh sáng toả ra từ nụ cười em nhỏ
Và chân trời như mắt anh trong
(Lưu Quang Vũ, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội nhà văn, 2010)
Xác định thể thơ của văn bản.
Trong khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng những hình ảnh nào để thể hiện sự đổi thay của cuộc sống.
Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ:
Năm lửa cháy các anh đi dập lửa
Tin tương lai như chùm quả ngọt ngào
Suy nghĩ của anh/chị về hình tượng nhân vật “anh” được đề cập đến trong văn bản.
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của anh/ chị về giá trị của hòa bình.
Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc mà ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của Sông Gâm , Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr.190 - 191)
Anh/ chị hãy phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích.








